Trầm cảm đến từ đâu? Kể từ khi Hippocrates, hai nghìn năm trăm năm trước, cho rằng nguyên do là cơ thể thừa “mật đen”, các cố gắng liên ngành tâm lý học, thần kinh học, hóa sinh vã xã hội học đã có những bước tiến lớn trong việc xác định nguồn cơn của trầm cảm.
Tuy nhiên, các nhà chuyên môn vẫn đứng trước rất nhiều ẩn số, đi kèm các tranh cãi. Nhưng nếu có một điều mà chắc chắn không ai phản đối thì đó là không có một nguyên nhân gây ra trầm cảm.
Ảnh hưởng của gene
Không khó để nhận ra, trầm cảm lặp lại qua các thế hệ của một gia đình.
Con cái của cha mẹ trầm cảm có rủi ro trầm cảm cao gấp hai tới ba lần so với mức trung bình trong dân cư, và nếu trầm cảm đã xuất hiện ở hai thế hệ thì ở thế hệ thứ ba, không những xác suất này nó xảy ra là cao hơn, nó sẽ còn xuất hiện sớm hơn và nặng hơn.
Tuy nhiên bản thân điều này chưa xác định rõ ràng vai trò của di truyền, nó có thể là câu chuyện của môi trường. Trầm cảm ở cha mẹ ảnh hưởng tới khả năng họ nuôi dạy con, khiến môi trường sống và quá trình trưởng thành của trẻ em trở nên bất lợi, và qua đó tăng khả năng nó cũng bị trầm cảm.
Mọi cố gắng để xác định gene hoặc những gene liên quan tới trầm cảm tới nay đều vẫn thất bại. Có lẽ sẽ không có gene hay nhóm gene nào chịu trách nhiệm hoàn toàn cho trầm cảm, theo nghĩa là người có gene đó thì chắc chắn sẽ bị trầm cảm, tương tự như cách màu mắt hay màu tóc được xác định bởi gene.
Ngược lại, người ta cho rằng sự tương tác qua lại giữa gene và yếu tố môi trường, cụ thể là stress, đóng một vai trò quan trọng. Điều này thực ra không xa lạ, chiều cao của một cá nhân là một sản phẩm của cả gene và môi trường, cụ thể là yếu tố dinh dưỡng.
Tương tác qua lại này được thể hiện qua mô hình khuynh hướng trầm cảm và stress. Khuynh hướng, hay còn gọi là tạng, diathesis trong tiếng Anh, là một sự tổn thương có sẵn. Nhưng khuynh hướng trầm cảm này được tạo ra bởi cái gì? Câu trả lời là gene.
Có thể hình dung khả năng chịu stress của mỗi người là một cái thùng. Người có khuynh hướng trầm cảm cao là người mà trong thùng có sẵn nhiều thân gỗ (gene bất lợi, trải nghiệm tuổi thơ khó khăn). Anh sẽ không còn nhiều chỗ cho những sự kiện gây áp lực mới trước khi cái thùng của anh đầy.
Ẩn dụ thùng chứa stress cung cấp một lời giải thích dễ hiểu cho những câu hỏi muôn thở hướng tới người trầm cảm, “Người khác gặp chuyện lớn hơn, sao họ không sao?” “Chỉ vì một thằng con trai thôi mà mày bị như vậy?”
Nguồn cơn nằm ở sự tổng hòa của vô số những điều khác nhau mà người ngoài có thể không hề biết tới: cha mẹ đã từng bị trầm cảm, tuổi thở thiếu tốn tình cảm, mất người thân sớm, chứng kiến bạo lực gia đình, bị xâm hại, kinh tế gia đình khó khăn.
Ảnh hưởng hóa thần kinh
Đây là một trong những mô hình sinh học quan trọng nhất của trầm cảm và là nền tảng cho các cố gắng phát triển thuốc trầm cảm từ hơn nữa thế kỷ nay. Hệ thống thần kinh có chức năng truyền các tín hiệu từ não tới các bộ phận khác của cơ thể. Tuy nhiên, các tế bào thần kinh không dính liền vào nhau, giữa chúng có một khoảng cách nhỏ, gọi là khớp nối (synapse). Các tín hiệu thần kinh được truyền tải qua khoảng cách nhỏ này bởi những phân tử dẫn truyền thần kinh (neutrotransmitter), ta có thể hiểu chúng như những người đưa thư.
Có ít nhất ba mươi loại người đưa thư khác nhau, nhưng ba chất dẫn truyền mang tên norepinephrine, dopamine và serotonin, được gọi chung là monoamine, đóng vai trò quan trọng trong câu chuyện của chúng ta. Người ta cho rằng serotonin điều hòa nhiều chức năng quan trọng của cơ thể như ngủ, ăn và các cảm xúc; norepinephrine thì liên quan tới phản ứng trước các áp lực, sự tỉnh táo, năng lượng và các mối quan tâm. Cuối cùng, dopamine được cho là tác động tới động lực, khoái cảm và hành vi tìm tới tưởng thưởng.
Theo lý thuyết monoamine, trầm cảm xuất hiện là do sự thiếu hụt của các chất dẫn truyền thần kinh (ở Mỹ, người ta cho rằng quan trọng nhất là norepinephrine, châu Âu, ngược lại, cho là serotonin quan trọng hơn). Về cơ bản, từ bảy mươi năm qua, các thế hệ thuốc chống trầm cảm khác nhau đều được phát triển và sản xuất với mục đích làm tăng mức của các monoamine trong các khớp thần kinh.
Lý thuyết này có vẻ là một lời giải thích quá đơn giản cho những hệ thống rất phức tạp đằng sau, và còn những cơ chế khác nữa đang vận hành mà chúng ta chưa biết tới. Đáng tiếc, tới thời điểm hiện nay, vẫn chưa có một lý thuyết nào về chất dẫn truyền thần kinh thuyết phục hơn để thay thế.
Ảnh hưởng của hệ điều tiết hormone
Mô hình này tập trung vào cơ chế bài tiết hormone vào trong máu để điều hóa các chức năng của cơ thể.
Hormone mà chúng ta quan tâm ở đây là cortisol, được sản sinh ra khi cơ thể đang gặp căng thẳng. Cortisol làm tăng lượng đường trong máu và hạn chế các chức năng không được coi là thiết yếu, nó chuẩn bị cơ thể cho một tình huống đánh trả hay chạy trốn. Một lượng hợp lý cortisol là cần thiết để cơ thể phản ứng trước những mối nguy hại hay tình huống căng thẳng trong cuộc sống. Tuy nhiên, nếu cơ thể bị stress triền miên, đồng nghĩa với việc cortisol bị duy trì ở mức cao, não bộ bị thay đổi. Hoạt động làm mới các tế bào thần kinh của hồi hải mã, phần não bộ phụ trách trí nhớ, nhận thức cũng như khả năng điều hòa tâm trạng, bị đình trệ.
Mô hình này lý giải mối quan liên quan giữa stress và trầm cảm, đồng thời giải thích vì sao trẻ em có tuổi thơ khắc nghiệt, bị bạo hành và hay lạm dụng tình dục sau này lại có khuynh hướng trầm cảm cao hơn. Stress kinh niên khiến cho hệ thống điều hòa cortisol của họ bị trục trặc và trở nên đặc biệt nhạy cảm. Cơ thể họ phản ứng thái quá trước những căng thẳng mới – nó luôn nhầm tưởng mình đang phải đối mặt với những nguy cơ lớn.
Cần nói thêm là căng thẳng khiến trầm cảm khởi phát, nhưng hệ quả của bệnh về phần mình lại khiến căng thẳng trở nên trầm trọng hơn; người trầm cảm rơi vào vòng xoáy đi xuống.
Mô hình nhận thức của Beck
Aaron Beck, cha dể của phương pháp trị liệu nhận thức hành vi phát triển nền móng lý thuyết của mình vào thập kỷ 1960, khi người ta bắt đầu có xu hướng rời xa quan điểm những suy nghĩ vô thức đóng vai trò quan trọng trong trầm cảm, hướng sự chú ý tới phần có ý thức trong suy nghĩ và quá trình xử lý thông tin của con người.
Beck cho rằng các phản ứng trong hành vi và cảm xúc là hệ quả những đánh giá trong nhận thức. Nói cách khác, các triệu chứng liên quan tới nhận thức xảy ra trước và gây ra những triệu chứng liên quan tới cảm xúc, tâm trạng và hành vi. Ví dụ, suy nghĩ rằng, “người khác thấy mình là một kẻ buồn chán” sẽ dẫn tới cảm xúc buồn bã và tâm trạng u ám, cũng như hành vi thu mình lại trước người xung quanh.
Trong mô hình của Beck, mọi thứ bắt đầu bằng những trải nghiệm thơ ấu tiêu cực, thường là với cha mẹ hay người chăm sóc chính mình. Những trải nghiệm này sẽ khiến niềm tin sai lệch, còn được gọi là những giản đồ gây trầm cảm (depression schemas), hình thành. Giản đồ là một cấu trúc nhận thức nằm sâu trong tiềm thức. Những suy nghĩ đến rồi đi, nhưng những niềm tin sai lệch này khá vững chắc. Một mặc định thầm lặng hay niềm tin sai lệch là, “Nếu không đạt được thành tích tốt thì mình chả có giá trị gì cả.”
Một niềm tin sai lệch có thể nằm im đó nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ, nhưng khi có một yếu tố stress ngoại cảnh xuất hiện và gợi nhớ lại các tình huống quá khứ khiến niềm tin được hình thành, niềm tin này được kích hoạt và tjao ra những suy nghĩ tiêu cực tự động. Gọi là tự động vì chúng xuất hiện ngay lập tức sau sự kiện gây stress, chúng ở bên dưới của ý thức và thường người ta không biết là mình có những suy nghĩ này trừ phi nắm bắt được những kỹ thuật như là chánh niệm.
Sự tiêu cực của chúng ta thường xoay quanh ba trục: bản thân, thế giới và tương lai. Về bản thân, “Mình là một kẻ vô dụng”, về thế giới, “Không ai ưa thích mình cả”, và về tương lai, “Mọi thứ vô vọng, sẽ như thế này mãi thôi”. Ba trục này tạo ra cái mà Beck gọi là tam giác nhận thức tiêu cực (negative cognitive triad).
Thế nhưng tại sao cái tam giác nhận thức tại hại kia lại được duy trì? Thông thường, người ta sẽ chỉnh sửa quan điểm của mình nếu thấy chúng vênh với những gì họ quan sát được trong thực tế chứ? Đó là vì, theo Beck, người trầm cảm có những thiên vị trong cơ chế suy luận và tiếp nhận thông tin, họ bị rơi vào các bẫy trong suy nghĩ.
Ví dụ, họ bị rơi vào bẫy lập luận cực đoan, trắng đen, “Nếu mình không đứng đầu lớp thì mình chẳng là gì cả.” Hoặc bẫy diễn giải tiêu cực “Sếp vừa đi qua mà không chào mình, chắc hẳn ông ấy ghét mình.” Những thiên kiến méo mó này khiến tam giác nhận thức tiêu cực được giữ vững và củng cố, chúng kéo ta vào vòng xoáy đi xuống của trầm cảm, nếu như ta không nắm vững kỹ thuật phá vỡ chúng một cách có ý thức.
Xem thêm:
10 tư duy sai lệch điển hình gây ra trầm cảm
Những bài tập thực hành CBT đơn giản
Thuyết về cách phản hồi tự lự ám ảnh
Nhà nữ tâm lý học Nolen-Hoeksema của Đại học Yale, Mỹ, quan tâm tới một cách phản ứng có vấn đề trước những đau buồn và cảm xúc tiêu cực mà bà gọi là rumination, có thể được dịch là tư lự ám ảnh, nghĩ quẩn quanh. The Nolen-Hoeksema, xu hướng phản ứng này đi cùng với nhận thức tiêu cực sẽ khiến cho rủi ro trầm cảm cao hơn và các giai đoạn trầm cảm cũng dài hơn.
Lý do là sự trầm ngâm ám ảnh khiến người ta chìm đắm vào vòng luẩn quẩn của những ý nghĩ “đời mình thật là tệ”, và “tại sao mọi thứ lại xảy ra với mình”.
Trị liệu tâm lý dựa trên chánh niệm là một cách hiệu quả để thoát khỏi chế độ suy nghĩ nhai đi nhai lại này.
Thuyết về sự bất lực được luyện
Lý thuyết này bắt nguồn từ các quan sát động vật của Martin Seligman, một nhà tâm lý học Mỹ, vào cuối thập kỷ 1960. Ông thấy rằng nếu cho bị giật điện trong một hoàn cảnh mà nó không thể làm gì được (ví dụ bì bị trói) thì sau một thời gian, nó sẽ có thái độ thụ động khi tiếp tục bị giật điện, kể cả khi môi trường đã thay đổi và nó có thể dễ dàng phản ứng để tránh được những cú giật này.
Seligman cho rằng sau những cố gắng bất thành ban đầu để tránh bị sốc, con vật kết luận rằng nó bất lực, nó không có khả năng kiểm soát hoàn cảnh, và do đó, không có động lực để phản ứng với nghịch cảnh mới nữa. Ông gọi đây là sự bất lực được học, được luyện, được lập trình (learned helplessness – một cách dịch sang tiếng Việt khác là bất lực tự nhiễm).
Những con vật có trạng thái bất lực được luyện này cũng có những dấu hiệu của trầm cảm, như là biếng ăn, sút cân, mức năng lượng giảm, và mức của các chất dẫn truyền thần kinh monoamine trong cơ thể chúng cũng thay đổi.
Liên hệ với người, Seligman và đồng nghiệp cho rằng khi con người trải qua những sự kiện tạo stress mà họ không kiểm soát được, ví dụ đứa trẻ bị cha mẹ đánh đập mà không thể thoát đi đâu, thì cũng như con chó kia, họ có sự bất lực tập nhiễm này và trở nên trầm cảm.
Kết luận
Lùi lạc một bước và nhìn lại, chúng ta thấy sự tương tác qua lại, đan xen của các yếu tố sinh học, môi trường và tâm lý để dẫn tới trầm cảm. Gene đóng một vai trò, nhưng vai trò đó không bất biến mà thay đổi tùy theo mức áp lực bên ngoài.
Mặt khác, những yếu tố ngoại cảnh như tác động của người mẹ lên thai nhi khi họ chịu stress, hay một tuổi thở bất hạnh cũng thay đổi tốt chất sinh học, cụ thể là nó có thể khiến người ta phát triển niềm tin sai lệch về bản thân, về xung quanh và về tương lai, hoặc bị tiêm nhiễm cảm giác mình bất lực trước cuộc sống.
Tất cả những điều này tạo nên sự tổn thương, khuynh hướng trầm cảm. Chúng làm suy yếu sức kháng cự của một cá nhân. Chỉ cần một cú đẩy mới, một sự kiện tiêu cực, họ có thể gục ngã.
Tốt lên mỗi ngày cùng bạn,
Tóm tắt lại chương 16, Những mô hình lý giải trầm cảm trong cuốn sách Đại dương đen của tấc giả Đặng Hoàng Giang. Bạn hãy mua sách để trang bị kiến thức đầy đủ hơn về trầm cảm và rối loạn lưỡng cực nhé.